Hoạt động xuất khẩu gạo không chỉ Việt Nam mà các nước trong khu vực khá trầm lắng do nhu cầu yếu. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm nhẹ.

Dây chuyền đóng bao gạo xuất khẩu tại tỉnh An Giang. (Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN)
Tuần qua, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm nhẹ, xuống còn 396 USD/tấn trong bối cảnh thị trường toàn cầu ảm đạm, nhu cầu yếu. Cùng lúc, giá lúa trong nước tại Đồng bằng sông Cửu Long biến động nhẹ giữa các địa phương. Hai động thái quan trọng từ thị trường quốc tế đang tác động đến triển vọng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Giá lúa, gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua có sự tăng/giảm nhẹ ở một số loại. Hoạt động xuất khẩu gạo không chỉ Việt Nam mà các nước trong khu vực khá trầm lắng do nhu cầu yếu. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm nhẹ.
Theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tuần qua, giá lúa khô loại IR 50404 ở Vĩnh Long duy trì ở mức 6.600 đồng/kg; Hậu Giang là 8.300 đồng/kg; Tiền Giang 6.500 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg...
Với OM18, tại Cần Thơ là 7.500 đồng/kg; Sóc Trăng là 8.100 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; Hậu Giang là 8.600 đồng/kg…
Với lúa Jasmine, tại Cần Thơ là 8.400 đồng/kg; Tiền Giang là 7.100 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg…
Lúa Đài thơm 8 ở Sóc Trăng là 7.700 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; ST 25 tại Cần Thơ vẫn là 9.500 đồng/kg.
Theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, giá một số loại lúa tươi được thương lái thu mua như: lúa IR 50404 ở mức từ 5.300-5.500 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa OM 380 từ 5.200-5.400 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; giá lúa OM 5451 dao động mốc 6.000-6.200 đồng/kg..
Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 14.000-15.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 20.000-22.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 16.000-18.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 21.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; gạo Sóc thường dao động ở mốc 17.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg…
Giá gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 8.250-8.350 đồng/kg, gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500-9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 7.950-8.050 đồng/kg; gạo thành phẩm OM 380 dao động ở mức 8.800-9.000 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 7.150-9.000 đồng/kg. Giá cám khô ở mức 8.000-9.000 đồng/kg.
Về xuất khẩu, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo 5% tấm trong tuần này niêm yết ở mức 396 USD/tấn, giảm nhẹ so với mức 397 USD của tuần trước. Một thương nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết cả hoạt động giao dịch và nhu cầu đều yếu.
Một trong những nước nhập khẩu gạo Việt Nam là Indonesia mới đây đưa ra thông tin lên kế hoạch ngừng nhập khẩu gạo trong năm nay do sản lượng nội địa tăng mạnh và kho dự trữ gạo dồi dào, giúp nước này tự tin đảm bảo nguồn cung trong nước.
Song theo nhiều doanh nghiệp, động thái trên sẽ không tác động nhiều do phân khúc gạo bán tại thị trường Indonesia là phân khúc giá thấp, nguồn gạo này của Việt Nam không dư thừa nhiều.
Bởi vậy, việc Indonesia lên kế hoạch ngừng nhập khẩu gạo trong năm nay cũng không đáng ngại đối với gạo Việt. Thêm vào đó, Việt Nam có ưu thế gạo chất lượng cao được ưa chuộng tại các thị trường cao cấp như EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Một động thái đáng quan tâm khác trên thị trường gạo là việc Ấn Độ bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo đã kéo giá gạo xuất khẩu tại nhiều nước giảm.
Ông Nguyễn Văn Thành - Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - thương mại Phước Thành IV (tỉnh Vĩnh Long) cho rằng, việc Ấn Độ bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo đã kéo giá gạo xuất khẩu tại nhiều nước giảm; trong đó có Việt Nam.
Hiện giá gạo xuất khẩu đã quay về mức giá của những năm 2020-2021 nhưng cao hơn một chút. Đây cũng là mức giá hợp lý.
Từ nay đến cuối năm 2025, giá lúa gạo trong nước sẽ không biến động nhiều so với năm 2023-2024, ông Nguyễn Văn Thành dự báo.
Tại Ấn Độ, nguồn cung dồi dào và kỳ vọng về một vụ mùa bội thu ở nước này đã đẩy giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ trong tuần này xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6/2023.
Tuần qua, giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được niêm yết ở mức từ 382-389 USD/tấn, không đổi so với tuần trước và là mức thấp nhất kể từ tháng 6/2023, còn gạo trắng 5% tấm của Ấn Độ có giá bán từ 375-381 USD/tấn.
Một thương nhân tại Mumbai (Ấn Độ) cho biết, Cơ quan Khí tượng dự báo lượng mưa sẽ cao hơn mức trung bình, điều này sẽ hỗ trợ nông dân mở rộng diện tích trồng lúa và tăng sản lượng.
Ngày 28/5, Ấn Độ đã tăng giá thu mua lúa thường vụ mới từ nông dân địa phương thêm 3%. Đây là mức tăng thấp nhất trong 5 năm, trong bối cảnh Chính phủ Ấn Độ đang nỗ lực kiểm soát kho dự trữ thóc gạo dồi dào, sau vụ thu hoạch kỷ lục năm ngoái.
Về gạo Thái Lan, giá gạo 5% tấm được chào bán ở mức từ 405-410 USD/tấn, không đổi so với tuần trước. Các thương nhân cho biết, nhu cầu thị trường khá trầm lắng, không có giao dịch lớn nào được thực hiện, trong khi nguồn cung dồi dào nhờ sản lượng tốt từ vụ thu hoạch gần đây đã được đưa ra thị trường.
Tại Bangladesh, chiến dịch thu mua gạo nội địa của chính phủ đang diễn ra chậm chạp, mặc dù giá thu mua đã tăng 9%. Nguyên nhân là do giá thị trường cao hơn và những bất cập trong quy trình thu mua.
Chương trình này được phát động vào ngày 24/4, với mục tiêu thu mua 1,75 triệu tấn gạo và lúa. Giá thu mua gạo đồ là 49 taka (0,4026 USD)/kg và lúa là 36 taka/kg.
Về thị trường nông sản Mỹ, trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) ngày 30/5, giá các mặt hàng nông sản chính như lúa mỳ, ngô và đậu tương biến động trái chiều, do tác động từ dự báo nguồn cung toàn cầu, cùng thông tin xuất khẩu của Mỹ.

Doanh nghiệp càphê Việt Nam có cơ hội tăng cường sự hiện diện tại thị trường Algeria. (Ảnh: Hoài Thu/TTXVN)
Giá lúa mỳ giảm nhẹ khi thị trường chịu áp lực bởi triển vọng mùa vụ toàn cầu tích cực. Chốt phiên này, giá lúa mỳ đỏ mềm vụ Đông giao tháng 7/2025 giảm 0,5 xu Mỹ, xuống 5,335 USD/bushel.
Tổ chức tư vấn nông nghiệp Sovecon đã nâng dự báo xuất khẩu lúa mỳ của Nga trong niên vụ 2025–2026 thêm 1,1 triệu tấn, lên 40,8 triệu tấn, với lý do điều kiện thời tiết thuận lợi.
Ngày 30/5, Phó Thủ tướng Nga Dmitry Patrushev cho biết nước này dự kiến sẽ xuất khẩu tổng cộng 53 triệu tấn ngũ cốc trong niên vụ 2024–2025, trong đó có 44,5 triệu tấn lúa mỳ.
Ngược chiều với lúa mỳ, giá ngô giao tháng 7/2025 tại phiên giao dịch cuối tuần này tăng 0,75 xu Mỹ, đạt 4,4775 USD/bushel.
Trong khi đó, giá đậu tương giảm nhẹ, duy trì gần mức thấp nhất của ba tuần ghi nhận vào ngày 29/5. Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần này, giá đậu tương giao tháng 7/2025 giảm 4,75 xu Mỹ, xuống còn 10,47 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương=27,2 kg; 1 bushel ngô=25,4 kg).
Áp lực đến từ dự báo nguồn cung dồi dào, cùng sự không chắc chắn về nhu cầu sử dụng đậu tương trong sản xuất nhiên liệu sinh học tại Mỹ.
Về thị trường càphê thế giới, trên sàn giao dịch London ngày 30/5, giá càphê robusta giao tháng 7/2025 chốt phiên ở mức 4.510 USD/tấn và giá càphê robusta giao tháng 9/2025 đứng ở mức 4.463 USD/tấn, giảm mạnh so với phiên trước.
Trong khi đó, giá càphê arabica trên sàn giao dịch New York cùng phiên tiếp tục giảm sâu, với loại càphê arabica giao tháng 7/2025 có giá 342,45 xu/lb, trong khi càphê arabica giao tháng 9/2025 đứng ở mức 339,80 xu/lb (1lb =0,45kg).
Tại thị trường trong nước, giá càphê ở các tỉnh khu vực Tây Nguyên tiếp tục đà giảm, với mức giảm trung bình 1.500 đồng/kg trong phiên giao dịch ngày 31/5 so với phiên trước. Cụ thể, càphê Đắk Lắk có giá bán là 118.500 đồng/kg, giá càphê tại Lâm Đồng là 118.200 đồng/kg, giá càphê tại Gia Lai là 118.500 đồng/kg và giá càphê tại Đắk Nông là 118.700 đồng/kg.
Hiện yếu tố gây áp lực lên giá càphê thế giới là mối lo ngại về nhu cầu tiêu thụ. Một số tập đoàn lớn như Starbucks, Hershey và Mondelez International cho biết mức thuế nhập khẩu cơ bản 10% tại Mỹ có thể khiến giá bán lẻ tăng và làm giảm sức mua càphê đã rang xay trên toàn cầu.
Giới chuyên môn nhận định, với xu hướng hiện tại, dự báo giá càphê thế giới có thể tiếp tục chịu áp lực trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về dài hạn, nhu cầu tiêu thụ càphê toàn cầu vẫn tăng, đặc biệt là tại các thị trường châu Á và Bắc Mỹ, có thể hỗ trợ giá càphê phục hồi./.
Nguồn: https://www.vietnamplus.vn/